Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

Phân hạng các dòng ôtô

Không khó để xếp một chiếc xe hơi vào đúng phân khúc trên thị trường, ngoại trừ vài trường hợp cho vào phân khúc nào cũng thấy băn khoăn.
Thực chất, xe hơi có thể được xếp loại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau. Nhưng kiểu phân hạng dưới đây được sử dụng phổ biến nhất, theo Wikipedia. Cách phân chia nào cũng có những đan xen hoặc không phổ quát hết. Mỗi thế hệ xe mới, các hãng lại nới thêm kích thước để đáp ứng người tiêu dùng. Vì thế những dữ kiện dưới đây mang tính chung nhất và dĩ nhiên vẫn có những ngoại lệ.
Phân khúc A - xe mini, xe gia đình cỡ nhỏXe mini thường sử dụng động cơ dung tích dưới một lít với 2 chỗ ngồi. Tiêu biểu là Smart Fortwo. Xe gia đình cỡ nhỏ hay xe nội thị thuộc phân khúc này có tốc độ nhanh hơn xe mini, công năng sử dụng cũng thuận tiện hơn. Trên cao tốc, nếu muốn, xe vẫn có thể đi nhanh hơn các "đàn anh" nhưng do kích thước nên phân khúc A luôn thiệt thòi hơn nếu xảy ra va chạm.
Khách hàng chủ yếu ở Việt Nam là những người mới mua xe lần đầu, đặc biệt là phụ nữ. Ưu điểm của phân khúc A là khả năng thích nghi trên phố. Với chiều dài dưới 3.400 mm, bạn sẽ thấy "dễ thở" như thế nào khi quay đầu trong ngõ hẹp. Những cái tên tiêu biểu là Fiat 500, Daewoo Matiz, Kia Morning, Toyota iQ hay Tata Nano.
Phân khúc B - xe gia đình cỡ nhỏĐó là những Ford Fiesta, Hyundai i20 hay Toyota Yaris quen thuộc trên thị trường Việt Nam. Xe thuộc phân khúc này có 3, 4 hoặc 5 cửa và thiết kế với 4 ghế và đăng ký chở 5 người. Những mẫu hatchback hiện hành có chiều dài tối đa 3.900 mm, trong khi kiểu sedan dài khoảng 4.200 mm. Phân khúc B duy trì tốt lợi thế đi trên phố nhưng cải tiến đáng kể tốc độ trên xa lộ. Động cơ từ 1.4 đến 1.6 nên đạt vận tốc cao hơn.
Phụ nữ cùng là khách hàng quen thuộc trong phân khúc này. Họ đã từng sở hữu xe, hoặc mua lần đầu.
Phân khúc C - bình dân hạng trungChiều dài tối đa 4.250 mm với kiểu hatchback và 4.500 mm với sedan, xe compact đủ chỗ cho 5 người lớn và thường trang bị động cơ từ 1.4 đến 2.2, đôi khi lên tới 2.5. Đây là loại xe phổ biến nhất trên thế giới bởi nó "vừa đủ" cho tất cả các nhu cầu từ trên phố, xa lộ hay nông thôn.
Trong danh mục xe bán chạy nhất thế giới có tên Toyota Corolla, thuộc phân khúc C, với danh số 35 triệu chiếc, tính đến 2007. Trong 40 năm tồn tại, cứ 40 giây lại có một chiếc Corolla được bán ra. Ngoài ra, có thể nhắc tới Ford Focus, Honda Civic và những sản phẩm mới nổi như Kia Forte hay Chevrolet Cruze.
Phân khúc D - xe bình dân cỡ lớnĐủ chỗ cho 5 người lớn và một khoang chứa đồ rộng, động cơ mạnh hơn xe compact và và phiên cao cấp nhất thường là loại 6 xi-lanh. Kích thước xe tùy theo khu vực: ở châu Âu hiếm khi dài hơn 4.700 mm, trong khi ở Bắc Mỹ, Trung Đông và Australia lại thường dài hơn 4.800 mm.
Ví dụ có Ford Mondeo, Toyota Camry, Honda Accord. Ở Mỹ, do thị hiếu mà phân khúc này lại được ưa chuộng. Chiếc Camry là xe bán chạy nhất của Toyota ở Mỹ chứ không phải Corolla.
Phân khúc E - xe hạng sangỞ châu Âu và một số thị trường, phân hạng E dành cho những mẫu xe được đưa lên hàng sang trọng, bắt đầu từ Audi A4, Mercedes C-class, BMW serie 3 hay Lexus IS. Giữa hạng E và hạng D, khái niệm về chiều dài tổng thể không còn được sử dụng. Trên thị trường sẽ chỉ so các dòng xe hạng sang với nhau. Ít ai so sánh Toyota Camry với Mercedes C-class bởi một điều chúng "không cùng đẳng cấp", dù kích thước có thể ở cùng một hạng.
Những chiếc A4, serie 3 hay C-class có thể coi là dòng thấp nhất của phân khúc hạng sang. Nhưng do nhu cầu thị trường, các hãng ngày tung ra các mẫu nhỏ hơn như A-class của Mercedes, A1 của Audi hay serie 1 của BMW. Chưa có cách nào để phân loại những dòng xe mới này.
Phân khúc F - xe hạng sang cỡ lớnTừ Audi A6, Mercedes E-class, BMW serie 5 hay Jaguar XF có thể thấy xe thuộc phân khúc này thường rộng rãi, có sức mạnh (dung tích động cơ trên 2.000 phân khối) và trang thiết bị sang trọng. Ở hạng sang, những chiếc A6, E-class hay serie 5 được ví như Corolla trong dòng bình dân. Trang bị đầy đủ hơn A4, C-class hay serie 3. Động cơ cũng lớn hơn.
Nhưng phân khúc này còn ngăn cách một bậc so với các đàn anh A8, S-class, LS hoặc serie 7 vốn thường được gọi là "hạng sang cao cấp". Nằm chung phân hạng F nhưng các mẫu "hạng sang cao cấp" dài hơn, động cơ với 6, 8 hoặc 12 xi-lanh và trang bị tốt hơn xe sang hạng trung. Chúng là những mẫu sản xuất trên dây chuyền hàng loạt cao cấp nhất. Tất cả những công nghệ mới nhất, trang bị tốt nhất và chất lượng phục vụ tốt nhất đều được Mercedes, Audi, BMW, Lexus ưu tiên cho phân khúc này.
Cao hơn hạng F là những mẫu xe "ngoại hạng" hay còn gọi là "siêu sang" như các sản phẩm của Rolls-Royce, Maybach và một vài loại của Bentley. Sản lượng của dòng siêu sang thấp do đối tượng mà chúng nhắm tới là những triệu phú, tỷ phú đô-la và có mức giá rất đắt. Các công đoạn lắp ráp thường làm bằng tay và có những chế độ đặt hàng trực tiếp từ khách hàng tới nhà máy.
Phân khúc S - xe coupe thể thaoXe thể thao, grand tourer (thể thao hạng sang với kiểu coupe 2 cửa, 2 ghế phía trước và 2 ghế nhỏ hơn phía sau), xe mui trần, roadster (mui trần 2 chỗ) và siêu xe đều thuộc phân khúc này. Có thể kể đến BMW serie 6, Mercedes CLK, Audi TT, Mazda MX-5, Porsche 911, Ferrari 458 Italia, Lamborghini Gallardo, Jaguar XK, Maserati GranTurismo, Bugatti Veyron, Pagani Zonda...
Phân khúc M - xe MPV hay minivanNhững chiếc MPV có thể chở tới 8 người. Cao hơn xe gia đình, xe MPV còn tạo tầm quan sát tốt hơn cho tài xế như Toyota Sienna hay Honda Odyssey.
Phân khúc J - xe SUVCó thể vượt qua những địa hình khó với hệ dẫn động 2 cầu, xe SUV thường có khoảng sáng gầm cao với thiết kế thân xe có thế đứng thẳng và kiểu hình hộp vuông vức. Những người thích xe SUV có thể chọn Ford Explorer, BMW X5, Toyota RAV4, Volkswagen Touareg hay Cadillac Escalade EXT.
Đây chỉ là phân loại chung. Trong dòng này còn chia ra có loại như hạng nhỏ, hạng trung và cỡ lớn. Xe bình dân và xe sang.
Xe bán tảiLà những mẫu xe hạng nhẹ có khoang chở hàng hóa lộ thiên. Thành viên của gia đình bán tải gồm Mitsubishi Triton, Ford Ranger hay Toyota Tundra.
Mỹ Anh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét